Sự Phát Triển Của Lí Luận Giáo Dục Thể Chất

1. Sự phát triển của giáo dục thể chất

Cũng như giáo dục nói chung, giáo dục thể chất xuất hiện cùng với xã hội và phát triển tuân theo quy luật phát triển của xã hội loài người.

Nguyên nhân khách quan:

Do điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, đòi hỏi con người phải có những kĩ năng, kĩ xảo nghề nghiệp. Muốn vậy, con người phải có sức khoẻ. Ngoài sản xuất là yếu tố quyết định cuối cùng của phương hướng, tính chất, quy mô và sự phát triển của giáo dục thể chất, thì các yếu tố như khoa học, quân sự, văn hoá cũng có ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển của hoạt động này.

Nguyên nhân chủ quan:

Khác với bản năng của động vật, hoạt động sống của con người là có ý thức, hành động của họ là cơ – trí. Vì vậy, họ đã sử dụng những biện pháp truyền thụ kinh nghiệm, hiểu biết về kĩ năng, kĩ xảo vận động cho thế hệ sau.

Giáo dục thể chất phản ánh những quy luật về sự phát triển thể chất, đặc biệt là những quy luật xã hội của giáo dục thể chất. Tính chất và phương thức vận dụng những quy luật xã hội của giáo dục thể chất đều do chế độ kinh tế và chính trị xã hội quyết định. Điều đó làm cho giáo dục thể chất mang tính chất xã hội. Trong xã hội có giai cấp thì nó phục vụ cho quyền lợi của giai cấp thống trị. Trong xã hội Xã hội chủ nghĩa nó là một bộ phận hữu cơ của giáo dục toàn diện. Giáo dục thể chất ra đời cùng với sự xuất hiện của xã hội loài người, tồn tại và phát triển với ý nghĩa là một trong những điều kiện tất yếu của nền sản xuất xã hội và nhu cầu của cuộc sống bản thân con người.

a. Trong xã hội nguyên thuỷ

Tất cả của cải làm ra đều là của chung, mọi người cùng lao động, cùng hưởng, không có giai cấp, không có bóc lột, nền giáo dục thể chất được thực hiện công bằng và thống nhất đối với mọi người. Những đặc điểm của nền sản xuất và quan hệ xã hội thời cổ sơ đã quyết định sự kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục thể chất với quá trình lao động và các hình thức giáo dục khác.

Mục đích giáo dục thể chất là đào tạo người đi săn và nội dung là những trò chơi bắt chước cảnh săn bắn, những nghi thức sinh hoạt. Thể dục thể thao dành cho mọi người.

b. Trong xã hội nô lệ

Do sức sản xuất phát triển, kinh nghiệm sản xuất ngày càng phong phú, của cải vật chất dư thừa, chế độ tư hữu về công cụ lao động và phương tiện sản xuất ra đời, chế độ cộng sản nguyên thuỷ tan rã, loài người bước vào chế độ có giai cấp. Giáo dục nói chung và giáo dục thể chất nói riêng trở thành công cụ đặc biệt của nhà nước trong cuộc đấu tranh để củng cố quyền lợi của giai cấp thống trị.

Các giá trị của con người thời nô lệ như: sự sùng bái đối với cơ thể phát triển cân đối, cường tráng, lòng dũng cảm, sự chịu đựng khổ nhục về thân thể… đã chiếm một vị trí chủ yếu trong hệ thống các giá trị.

Các sự kiện thể dục thể thao quan trọng của thời kì này như các cuộc thi Olimpic đã ảnh hưởng lớn đến mối quan hệ giữa các quốc gia.

Luyện tập thể dục thể thao phát triển mạnh trong đội ngũ những công dân tự do và chủ nô.

Mục đích giáo dục thể chất là phát triển thể lực và tinh thần của giai cấp chủ nô và chuẩn bị cho chúng tiến hành chiến tranh bảo vệ những vùng đất đã xâm chiếm. Nội dung giáo dục thể chất chủ yếu là các bài tập phục vụ cho việc tiến hành chiến tranh.

Như vậy, ngoài lao động, quân sự cũng có tác dụng thúc đẩy sự phát triển thể dục thể thao.

c. Trong xã hội phong kiến

Khi xã hội phong kiến lên thay thế thì chế độ nô lệ bị xoá bỏ, nhưng chế độ người bóc lột người không bị tiêu diệt, mà ngược lại nó được củng cố, hình thức bóc lột cũng đa dạng hơn.

Mục đích giáo dục thể chất là đào tạo các võ sĩ, kị sĩ, hiệp sĩ ưu tiên cho quân đội để sử dụng vào việc mở rộng lãnh thổ, đàn áp phong trào nông dân.

Nội dung giáo dục bao gồm “thất nghệ”: cưỡi ngựa, săn bắn, bơi lội, đấu kiếm, ném lao, đánh cờ, làm thơ, trong đó giáo dục thể chất chiếm vị trí quan trọng.

Mặc dù bị cấm hoặc không được chú ý khuyến khích, nhưng trong quần chúng nhân dân đã hình thành hệ thống giáo dục thể chất của mình, bao gồm các loại trò chơi, các điệu múa dân gian, các bài tập thể lực và chiến đấu, võ dân tộc.

d. Trong xã hội Tư bản chủ nghĩa

Do điều kiện hoạt động xã hội thay đổi và phát triển, đặc biệt là nền sản xuất hiện đại, giai cấp thống trị không thể không chú ý đến sự phát triển thể lực và trí tuệ của quần chúng lao động. Ở các nước tư bản phát triển, thể dục thể thao đạt đến trình độ cao. Tuy nhiên, thể dục thể thao được sử dụng không ngoài mục đích chính trị và phục vụ cho việc củng cố địa vị của giai cấp tư sản.

Một số đặc điểm của giáo dục thể chất thời kì này:

Chuẩn bị thể lực cho người lao động nhằm bóc lột sức lao động của họ ở mức cao nhất.

– Huấn luyện thể lực cho quân đội, cảnh sát để bảo vệ chế độ chính trị của giai cấp tư sản hoặc đi xâm lược nước khác.

– Lôi kéo hoặc đối lập giữa các nước có chế độ chính trị khác nhau, chia rẽ dân tộc, màu da.

– Thể dục thể thao trở thành một hoạt động kinh doanh, vận động viên và huấn luyện viên trở thành hàng hoá.

e. Trong xã hội Xã hội chủ nghĩa

Thể dục thể thao sử dụng vào mục đích giáo dục con người phát triển toàn diện, phục vụ cho lao động sản xuất và quốc phòng, cải thiện đời sống tinh thần cho nhân dân.

Ngày nay, hầu hết các nước trên thế giới đều có chung mục đích giáo dục thể chất, đó là đem lại sức khỏe cho mọi người.

Tóm lại, giáo dục thể chất là một bộ phận quan trọng của giáo dục, nằm trong kho tàng văn hoá chung của nhân loại. Giáo dục thể chất là một hiện tượng của đời sống xã hội. Nó xuất hiện cùng với xã hội và phát triển tuân theo các quy luật phát triển của xã hội.

2. Sự phát triển của lí luận giáo dục thể chất

Sự ra đời và phát triển của khoa học về lí luận giáo dục thể chất có thể giải thích như sau:

– Thực tiễn đời sống xã hội, nhu cầu của xã hội trong việc cần phải chuẩn bị tốt về mặt thể lực cho con người để sinh sống, lao động sản xuất, chiến đấu, làm nảy sinh khát vọng hiểu biết các quy luật, các phương pháp giáo dục thể chất, trên cơ sở đó xây dựng hệ thống bài tập điều khiển sự hoàn thiện thể chất cho con người.

– Thực tiễn giáo dục thể chất đã kiểm nghiệm các quan điểm lí luận giáo dục thể chất, xuất hiện những tư tưởng khoa học, từ đó khái quát hoá thành lí luận và phương pháp giáo dục thể chất.

– Cơ sở tư tưởng của học thuyết giáo dục toàn diện bao gồm những quan điểm tiến bộ về nội dung và các con đường phát triển con người toàn diện đã được các nhà triết học, nhà giáo dục của các nước thuộc các thời đại khác nhau chứng minh. Những tư tưởng ấy đi vào lịch sử như là những học thuyết kinh điển và cách mạng, những quan điểm giáo dục cơ bản của các thời đại khác nhau.

– Học thuyết Mác – Lênin về giáo dục cộng sản chủ nghĩa không những đã chỉ rõ quyền được phát triển toàn diện của con người, mà còn khám phá ra nội dung và con đường thực hiện học thuyết ấy. Trên thế giới chưa có một phương pháp luận nào có thể vạch ra được con đường đúng đắn đi đến chân lí hơn phương pháp luận chủ nghĩa Mác – Lênin. Do đó, học thuyết về giáo dục cộng sản chủ nghĩa đã trở thành cơ sở vững chắc cho lí luận giáo dục thể chất.

Trong quá trình phát triển của mình, lí luận giáo dục thể chất trải qua một số giai đoạn sau đây:

Giai đoạn 1: Từ khi xuất hiện loài người đến năm 776 trước Công nguyên. Trong giai đoạn này, con người tiếp thu những tri thức có tính chất kinh nghiệm về ảnh hưởng của các động tác đến kết quả của thực tiễn lao động. Từ việc tích luỹ tri thức mang tính chất kinh nghiệm ấy nâng lên thành ý thức về hiệu quả của việc tập luyện và nhận thức được các phương tiện truyền đạt kinh nghiệm. Đó là một trong những tiền đề làm xuất hiện các bài tập thể chất và cùng với nó, giáo dục thể chất ra đời.

Giai đoạn 2: Từ năm 776 trước Công nguyên đến thế kỉ XV. Trong giai đoạn này, hình thành những phương pháp đầu tiên về giáo dục thể chất phổ biến trong các thời kì, các quốc gia nô lệ Hi Lạp. Các phương pháp này cũng được hình thành bằng con đường kinh nghiệm. Ở giai đoạn này, các nhà triết học, giáo dục học và thầy thuốc chưa hiểu được các quy luật hoạt động của cơ thể, chưa giải thích được cơ chế tác động của các bài tập thể chất, do đó người ta đánh giá hiệu quả các bài tập thể chất theo kết quả bên ngoài: nhanh hơn, mạnh hơn, hình thành được nhiều kĩ năng, kĩ xảo mới hơn.

Phương pháp giáo dục thể chất thời cổ Hi Lạp là nổi tiếng hơn cả. Phương pháp này liên kết các biện pháp rèn luyện và phát triển sức nhanh, mạnh, bền thành một hệ thống thống nhất. Đến giai đoạn trung cổ, số lượng các phương pháp được tăng lên, xuất hiện những giáo trình đầu tiên về thể dục, bơi lội, trò chơi, bắn cung,…
Giai đoạn 3: Từ thế kỉ XV đến cuối thế kỉ XIX, tích luỹ khối lượng lớn những tri thức lí luận về giáo dục thể chất, phổ biến ở thời kì Phục hưng. Những tư tưởng sư phạm về thể dục được đặc biệt phát triển cho đến cuối thế kỉ XIX. Sự phát triển khoa học về con người, về giáo dục và giáo dưỡng chữa bệnh đã kích thích các nhà triết học, giáo dục học và thầy thuốc chú ý đến vấn đề giáo dục thể chất.

Các tác phẩm của Mác- Ănghen đã xác định phương pháp luận cho việc tìm tòi sáng tạo của các nhà khoa học tiến bộ. Ở giai đoạn này đã hình thành những cơ sở lí luận tạo tiền đề cho sự phát triển của khoa học giáo dục thể chất ở giai đoạn sau.

Giai đoạn 4: Từ cuối thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX, Khoa học về giáo dục thể chất được phát triển mạnh mẽ hình thành môn Lí luận và Phương pháp giáo dục thể chất với tư cách là một khoa học độc lập. Nhà bác học Nga P.Pr. Lexgáp (1837 – 1909) đã đặt nền móng cho Lí luận giáo dục thể chất hiện đại với tư cách là một môn khoa học độc lập từ những tác phẩm của ông về lịch sử giải phẫu, sinh vật, giáo dục học, lí luận và phương pháp giáo dục thể chất.

Các tác phẩm của V.I. Lênin (1870 – 1924 ) có ý nghĩa to lớn đối với việc phát triển tư tưởng khoa học, về vai trò của giáo dục thể chất trong đời sống xã hội.

Giai đoạn 5: Từ đầu thế kỉ XX đến nay, thực hiện học thuyết Mác-Lênin về giáo dục cộng sản chủ nghĩa bắt đầu sau thắng lợi vĩ đại của Cách mạng tháng Mười Nga.

Giai đoạn 6: Từ cuối thế kỉ XX đến nay, triết học duy vật biện chứng là cơ sở chung của phương pháp luận giáo dục thể chất.

3. Sự phát triển của lí luận giáo dục thể chất cho trẻ em

P.Ph. Lexgáp là nhà sáng lập lí luận giáo dục thể chất người Nga. Ông là nhà bác học, giáo dục vĩ đại, giáo sư y học và phẫu thuật, là một trong số những người tiến bộ ở thời đại của mình.

Những năm 60 của thế kỉ XIX, cùng với tư tưởng của ông còn có các nhà cách mạng dân chủ như N. G. Trernsepxki và N. A. Dobraliubốp. Dựa trên quan điểm khoa học biện chứng, Lexgáp đã xây dựng cơ sở lí luận giáo dục, trong đó lí luận giáo dục thể chất đóng vai trò chủ yếu. Ông đã nghiên cứu hệ thống các bài tập thể chất cho trẻ, ý nghĩa vệ sinh và sức khoẻ của bài tập thể chất.

P. Ph. Lexgáp cho rằng, cơ sở để lựa chọn bài tập thể chất là phải tính đến những đặc điểm giải phẫu sinh lí và tâm lí, mức độ khó dần và đa dạng của các bài tập thể chất. Ông nghiên cứu một cách hệ thống các bài tập thể chất nhằm phát triển toàn diện và đúng chức năng của cơ thể con người. Ông cho rằng, sự phát triển thể chất có mối quan hệ với sự phát triển trí tuệ, đạo đức thẩm mĩ và hoạt động lao động. Quá trình thực hiện bài tập thể chất ông coi như là một quá trình thống nhất giữa sự hoàn thiện tình thần và thể chất.

Lexgáp coi giáo dục thái độ tự giác thực hiện công việc với sự tiêu hao ít sức lực và sự cố gắng vượt qua những trở ngại là nhiệm vụ cơ bản trong việc dạy các bài tập thể chất. Ông nhấn mạnh ý nghĩa của lời nói hướng đến sự tự giác của trẻ, không được cho trẻ bắt chước một cách máy móc. Ông yêu cầu giáo viên phải chuẩn bị và tiến hành có hệ thống các tiết học. Trong quá trình dạy học, giáo viên cần tăng dần sức chịu đựng cơ thể, thay đổi bài tập thể chất và đa dạng hoá chúng.

Ông nghiên cứu lí luận và phương pháp tiến hành trò chơi vận động. Ông coi trò chơi vận động như là “bài tập” mà nhờ đó trẻ chuẩn bị cho cuộc sống sau này. Trong những trò chơi đó, trẻ lĩnh hội kĩ năng, thói quen, hình thành tính cách của mình. Quy tắc của trò chơi có ý nghĩa như quy luật, trẻ cần phải có ý thức tự giác và có trách nhiệm. Việc thực hiện những quy tắc này bắt buộc đối với tất cả các trẻ, vì thế chúng có ý nghĩa giáo dục lớn. Trò chơi làm phát triển những phẩm chất đạo đức, tính kỉ luật, trung thực, sự công bằng, giúp đỡ lẫn nhau. Ông coi trò chơi như phương tiện giáo dục nhân cách. Những lí luận của P. Ph. Lexgáp là nền tảng vững chắc cho sự phát triển khoa học Lí luận giáo dục thể chất cho trẻ em.

V.V. Gorinhépxki (1857 – 1937) – giáo sư, bác sĩ nhi khoa, học trò của P. Ph. Lexgáp, là người đã làm rõ hơn học thuyết của Lexgáp về giáo dục thể chất. Hoạt động của ông diễn ra trong suốt những năm 80 – 90 của thế kỉ XIX và tiếp tục trong vòng 20 năm sau Cách mạng tháng Mười Nga. Ông nghiên cứu vấn đề vệ sinh của các bài tập thể chất, thể dục chữa bệnh. Ông là người sáng lập công tác kiểm tra y tế và giáo dục trong các tiết học thể dục và rèn luyện thể thao. Ông xác định những đặc trưng của giáo dục thể chất trong các giai đoạn khác nhau của cuộc sống con người. Sơ đồ của ông về “Bài tập thể chất phù hợp với lứa tuổi” có ý nghĩa tuyên truyền rộng rãi và tác phẩm “Văn hoá thể dục cho trẻ trước tuổi đến trường” đã bổ sung về mặt lí luận giáo dục thể chất cho trẻ.

Như vậy, nếu P. Ph. Lexgáp là nhà sáng lập khoa học giáo dục thể chất ở nước Nga, đặt cơ sở khoa học giáo dục thể chất cho thế hệ trẻ, thì người kế tục sự nghiệp của ông là V.V. Gorinhépxki đã phát triển khoa học đó dựa trên đặc điểm lứa tuổi đặc trưng của giáo dục thể chất với những nghiên cứu mới và những yêu cầu mới của xã hội chủ nghĩa.

E. A. Arkin – giáo sư, tiến sĩ, viện sĩ Viện Khoa học Giáo dục Nga đã kế tục sự nghiệp của P. Ph. Lexgáp và V. V. Gorinhépxki.

Từ ngày đầu của chính quyền Xô viết, Arkin là người chỉ đạo, tư vấn cho bộ phận hỏi đáp của dân ở Sở Giáo dục Mátxcơva, đưa bác sĩ xuống các trường mầm non, giữ mối quan hệ với giáo viên, cuốn hút họ đến với công việc nghiên cứu, cho họ làm quen với những vấn đề chính của học thuyết L. M. Xêtrênốp và I. P. Páplốp về những quy luật của hệ thần kinh cấp cao, chế độ sinh hoạt và tổ chức cuộc sống cho trẻ, thiết lập mối quan hệ giữa gia đình và nhà trường.

N. K. Krúpxkaia (1869 – 1939) là người có công lao lớn nhất trong quá trình phát triển lí luận về giáo dục toàn diện cho trẻ mầm non. Bà đã chỉ ra sự cần thiết phải nghiên cứu lí luận giáo dục mới, xây dựng trên cơ sở học thuyết Mác – Lênin, kết hợp với nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Bà cho rằng, giáo dục thể chất cho trẻ có ý nghĩa lớn, coi luyện tập thể dục thể thao là nhiệm vụ quan trọng để làm vững mạnh thế hệ mai sau.

Ghi nhận sự tác động có ích của bài tập thể chất lên cơ thể trẻ, bà đề cao vai trò của trò chơi. Trò chơi không chỉ củng cố sức khoẻ của cơ thể, mà nó còn được sử dụng với mục đích giáo dục, góp phần hình thành, củng cố kĩ năng bài tập thể chất, giáo dục cách biết điều khiển bản thân có tổ chức, có tính cách.
E G. Levi – Gorinhépxkaia – bác sĩ, nhà giáo dục, đã đóng góp nhiều công lao trong lĩnh vực lí luận và thực tiễn giáo dục thể chất cho trẻ mầm non. Tác phẩm “Rèn luyện cơ thể trẻ” và “Sự phát triển vận động cơ bản của trẻ mầm non của bà và A. I. Bưcốpva đã giúp cho các nhà nghiên cứu có cơ sở xây dựng hệ thống bài tập thể chất phù hợp với trẻ mầm non.

A. L. Bưcốpva nghiên cứu vấn đề phát triển vận động của trẻ mầm non. Bà đã chứng minh và đưa ra quá trình dạy trẻ các vận động, ý nghĩa, nội dung, cách thức tổ chức và phương pháp tiến hành.

Những công trình nghiên cứu khoa học về phương pháp của N.A. Métlốp, M.M. Kôntorôvích, L.I. Mikhailốpva, AI. Bưcốpva có ảnh hưởng đáng kể đến sự phát triển lí luận và thực tiễn của giáo dục thể chất mầm non. Cùng với những tác giả khác, họ đã nghiên cứu chương trình giáo dục thể chất cho trẻ, giáo trình giảng dạy cho trường Trung học Sư phạm và những trò chơi vận động cho các truờng mầm non.

Một trong những công trình đầu tiên về hình thành kĩ năng vận động ở trẻ là công trình nghiên cứu của Đ.V. Khúckhlaieva. Bà xác định ý nghĩa và mối tương quan của phương pháp dạy học với việc hình thành kĩ năng vận động ở trẻ 3 – 7 tuổi.

Những năm gần đây, trong lĩnh vực giáo dục thể chất cho trẻ mầm non đã có số lượng đáng kể những công trình nghiên cứu khoa học về chế độ sinh hoạt, hình thành kĩ năng vận động cho trẻ mầm non, ý nghĩa giáo dục của trò chơi vận động, hình thành khả năng định hướng không gian, tố chất thể lực trong vận động của trẻ, vai trò giáo dục của thi đua, dạy trẻ bài tập vận động cơ bản và bài tập thể thao.

Năm 1972, A.V. Kenheman và Đ.V. Khúckhlaieva đã viết cuốn sách “Lí luận và phương pháp giáo dục thể chất cho trẻ mầm non”. Đây là sự đúc kết của hàng trăm công trình nghiên cứu trong lĩnh vực giáo dục thể chất cho trẻ mầm non.

Ở phương Tây, các nhà giáo dục chủ yếu nghiên cứu khía cạnh ứng dụng của giáo dục thể chất. Các nghiên cứu mang tính chất tản mạn, đi sâu vào phương pháp rèn luyện từng bộ môn thể dục thể thao dành cho trẻ lớn tuổi, ít có những công trình về lí luận và phương pháp giáo dục thể chất cho trẻ mầm non. Tuy nhiên, họ đã có những thành công lớn trong việc soạn ra những trắc nghiệm nhằm đánh giá khả năng vận động của trả mầm non.

Ở Việt Nam có Trung tâm Nghiên cứu Giáo dục Mầm non thuộc Viện Khoa học giáo dục Việt Nam, đã nghiên cứu ứng dụng những thành tựu khoa học của các nhà khoa học Liên Xô, Mĩ, Pháp vào thực tiễn giáo dục thể chất cho trẻ mầm non của Việt Nam.

This Post Has 2 Comments

  1. Maria

    Feliz de ver esta página

Trả lời